Sách nói Điêu Tàn, Tác Phẩm Và Dư Luận

Điêu Tàn, Tác Phẩm Và Dư Luận

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23

Giới thiệu nội dung

Hàn Mặc Tử đã từng nói rằng "Làm thơ tức là điên", trong khi đó Chế Lan Viên lại viết thêm rằng "Làm thơ là làm một điều phi thường. Thi sĩ không phải là người bình thường. Họ là những người mơ mộng, say mê và điên cuồng. Họ là tiên, ma quỷ, tinh linh và yêu quái.

Họ vượt qua hiện tại, gắn bó với quá khứ và ôm trọn tương lai... Nhưng có những người tự cho rằng hiểu được họ, sau đó so sánh họ với người bình thường và chỉ trích họ là giả dối và không chân thật. Đúng vậy, họ không chân thật và giả dối với người bình thường. Với họ, mọi thứ họ nói đều có ý nghĩa." Đó là lý do tại sao thơ của Chế Lan Viên thu hút được độc giả và là lý do mà nhiều người viết về thơ ông.

Chế Lan Viên, ban đầu tên là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.

Ông đã lớn lên và theo học ở Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp trường Trung học cơ sở (tương đương với THCS hay cấp II hiện nay), ông quyết định nghỉ học và đi dạy để kiếm sống. Quy Nhơn, Bình Định có thể coi là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi mà ông lại gắn bó và để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn của một nhà thơ tài ba.

Ông bắt đầu viết thơ từ khi còn 12, 13 tuổi. Thành danh với bút danh Chế Lan Viên khi ông được 17 tuổi, khi mà ông phát hành tập thơ đầu tiên của mình có tựa đề là "Điêu tàn", đồng thời cũng là lời tuyên ngôn nghệ thuật của Trường Thơ Loạn. Tập thơ "Điêu tàn" thể hiện cảm xúc của ông với một đế chế - Đế chế Chiêm Thành, và ông cảm thấy tiếc nuối vì sự "điêu tàn" của đế chế này. Ông lấy tên Chế Lan Viên để ghi danh cho chính mình, trong khi ông thực ra sinh ra ở Quảng Trị với tên Phan Ngọc Hoan.

Ông cảm thương cho một triều đại đã từng là "Kẻ thù phương Nam" của dân tộc Việt Nam với những nhân vật lãnh đạo như Chế Củ, Chế Bồng Nga và đã bị các vị vua của Việt Nam xóa bỏ. Kể từ đó, tên gọi Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trong thế giới thơ ca Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, và Quách Tấn được một số người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định.

Năm 1939, ông bắt đầu học tại Hà Nội. Sau đó, Chế Lan Viên chuyển đến Sài Gòn làm báo và sau đó làm giáo viên tại Thanh Hóa. Năm 1942, ông xuất bản tập văn Vàng Sao, bao gồm những bài thơ triết học về cuộc sống với phong cách siêu thực và huyền bí.

Khi cuộc cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, sau đó di chuyển đến Huế để tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư và Đào Duy Anh. Trong thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và biên tập cho các báo Quyết Thắng, Cứu Quốc và Kháng Chiến. Phong cách thơ của ông dần dần chuyển sang hiện thực. Vào tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1954, Chế Lan Viên chuyển đến Bắc và làm biên tập viên cho báo Văn Học. Từ năm 1956 đến 1958, ông làm việc tại phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương, sau đó quay lại làm biên tập viên cho tuần báo Văn Học (sau này là báo Văn Nghệ). Từ năm 1963, ông là thành viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, cũng như thành viên ban thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đại diện Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong các kỳ họp IV, V và VI, và là thành viên của Ban văn hóa - giáo dục trong Quốc hội.

Sau năm 1975, ông định cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông qua đời ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, khi ông 68 tuổi.

Ông đã được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật vào năm 1996.

Trang tổng hợp những sách nói hay, truyện audio, mới nhất, chất lượng cao và hoàn toàn miễn phí.