Giới thiệu nội dung
Cuộc sống xung quanh chúng ta đầy màu sắc, và chánh niệm là trái tim của thiền tập, là nguồn năng lượng không thể thay đổi suốt cả cuộc đời. Người sống trong chánh niệm và tâm an sẽ truyền tải niềm vui và sự thanh thản đến cho những người xung quanh và thậm chí thay đổi cả xã hội.
Theo lời Thiền sư Lâm Tế: "Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định. Định làm phát sinh hỷ lạc". Với định hướng đúng, con người sẽ cảm thấy rằng mình đang thực sự sống chứ không chỉ đơn thuần là tồn tại. Cuộc sống đầy rực rỡ không chỉ dựa trên những gì mắt thấy, mà còn dựa trên hơi thở và tâm hồn.
Nghỉ ngơi là bước đầu tiên của thiền tập, và con đường ngắn nhất là thả lỏng và không ép buộc. Sống là để không uổng phí một đời, sống trọn vẹn từng giây phút, thanh thản từng hành động. Nếu ta chỉ sống trong quá khứ và lo buồn về tương lai, hiện tại sẽ tự nhiên héo úa.
Bước đi thoải mái, an lạc và đi như không đi sẽ không khiến ta mệt mỏi. Nếu ta hiểu rằng mỗi bước đi đều tiếp xúc với cuộc đời và vô vàn màu nhiệm, thì sự cố gượng là không cần thiết. Chạm vào mặt đất, là nguồn gốc của "Sám Pháp địa xúc". Điều này có thể giúp người ta thực hành khi bế tắc, lo lắng. Nó giúp chúng ta bình tĩnh, che chở và tìm lối thoát cho mọi khó khăn.
Cuốn sách tiếp tục với Năm uẩn trong một con người: sắc, thọ, tưởng, hành và thức đều cần ta trị vì và cai quản. Chánh niệm giúp ta nhận ra tập khí khi chúng bắt đầu phát triển và ngăn ngừa chúng làm phiền giấc ngủ mỗi đêm. Nó cũng giúp ta loại bỏ những tri giác sai lầm.
Cuốn sách kết thúc với "Năm giới tân tu": bảo vệ sự sống, hạnh phúc chân thật, tình thương đích thực, lắng nghe và ái ngữ, nuôi dưỡng và trị liệu. Đây là năm phép thực tập chánh niệm, giúp ta vượt qua mọi rào cản, bao gồm cả hận thù và tuyệt vọng, để ta bước đi trên con đường thanh thản và sống một cuộc đời đáng sống.
"Trong mỗi chúng ta, ai cũng có một em bé bị thương bên trong. Khi còn nhỏ tất cả chúng ta đều trải qua những giai đoạn khó khăn và khổ đau nên mang theo trong lòng nhiều thương tích. Để bảo vệ và phòng hộ cho chính mình, không muốn cho những khổ đau ấy xảy ra trong tương lai, ta có khuynh hướng quên đi những khổ đau thời thơ ấu. Mỗi lần tiếp xúc với những khổ đau như thế ta có cảm tưởng là ta không thể chịu nỗi và ta muốn nhận chìm những cảm thọ, những ký ức này xuống dưới vùng vô thức. Và ta không dám đối diện với em bé này đã nhiều năm rồi. Tuy nhiên, không phải vì ta không muốn để ý tới nó mà nó không có. Đứa trẻ bị thương luôn luôn có đó, muốn sự chú ý của ta. "